Một bài nghiên cứu trước khi Luật được thông qua:
1.
Khái quát quy đinh hiện hành về Hội thẩm nhân dân, Đoàn Hội thẩm
Hội thẩm nhân dân (sau đây gọi là Hội thẩm) là
một chức danh trong hoạt động tố tụng được Hiến định tại khoản 1, khoản
2 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp: “1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm... 4. Tòa án
nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn”.
Cụ thể hóa các quy định nêu trên của Hiến pháp, Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân đã quy
định tại các điều 8, 9 và 10 về chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tòa án nhân dân xét xử tập
thể và quy định chi tiết tại Chương VIII về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội thẩm;
tiêu chuẩn Hội thẩm; thủ tục bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm, nhiệm kỳ
của Hội thẩm; chế độ, chính sách đối với Hội thẩm; trách nhiệm của Hội thẩm;
điều kiện miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm; Đoàn Hội thẩm, trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân đối với Hội thẩm;
pháp luật tố tụng cũng đã có quy định liên quan, cụ thể:
* Thẩm quyền của
Hội thẩm
Theo quy định Hội thẩm có
nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
-
Về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự: Hội thẩm có
nhiệm vụ, quyền hạn: (a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; (b) Tiến
hành xét xử vụ án; (c) Tiến hành hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề
thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử; Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hành vi, quyết định của mình[1].
- Về xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hành chính, Hội thẩm có nhiệm vụ, quyền hạn: (a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi
mở phiên tòa; (b) Đề nghị Chánh án Tòa án, Thẩm phán ra các quyết định cần thiết
thuộc thẩm quyền; (c) Tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự; (d) Tiến hành các
hoạt động tố tụng và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử[2].
* Tiêu chuẩn bầu Hội thẩm
Tiêu
chuẩn để bầu Hội thẩm được quy định tại Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014:
-
Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt,
có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần
dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.
-
Có kiến thức pháp luật.
-
Có hiểu biết xã hội.
-
Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
* Về cơ cấu,
số lượng Hội thẩm tại các Tòa án
Cơ cấu của Hội thẩm[3]:
Cần phải hợp lý, phù hợp với yêu cầu xét xử các loại án nói trên và tình hình đặc
điểm xã hội của từng địa phương. Vì vậy, về cơ cấu Hội thẩm cần chú ý lựa chọn
những người thuộc các tổ chức xã hội, các đoàn thể ở địa phương như MTTQ Việt
Nam, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh; ngành giáo dục; các nhà doanh nghiệp; kinh tế, tôn giáo, ...
Số
lượng Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện dự
kiến đưa ra bầu thực hiện như sau[4]:
- Đối
với Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Cứ 02 Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì có 03 Hội thẩm Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, nhưng tổng số Hội thẩm của một Tòa án nhân dân tỉnh không dưới 20
người và không nhiều hơn 100 người.
- Đối với Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện: Cứ 01 Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp huyện thì có 02 Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện,
nhưng tổng số Hội thẩm của một Tòa án nhân dân cấp huyện không dưới 15 người và
không nhiều hơn 50 người, trừ trường hợp đặc biệt có thể có dưới 15 người.
* Về
bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm, nhiệm kỳ Hội thẩm
-
Thủ tục bầu, cử Hội thẩm[5]:
Tòa
án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ
cấu thành phần Hội thẩm đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa
chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 85 của Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân để Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật định bầu Hội thẩm
nhân dân.
Việc
chuẩn bị nhân sự để giới thiệu bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện theo quy
định tại Điều 85, Điều 86 Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014; Điều 4 Quy chế
tổ chức và hoạt động Đoàn Hội thẩm (ban hành kèm theo Nghị quyết số
1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội) và áp dụng các
hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày
01/03/2004 của Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hướng
dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm nhân dân và Thông tư số
03/2009/TT-TANDTC ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc
giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân huyện, quận
nơi không tổ chức hội đồng nhân dân.
- Thủ tục
miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm
Chánh
án Tòa án nhân dân sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp, đề nghị Hội đồng nhân dân miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân[6].
Tại các địa phương không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp
huyện thì việc đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm được
thực hiện theo trình tự[7].
- Điều
kiện miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm[8]:
Hội
thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do chính đáng khác;
Hội
thẩm bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm
pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm.
- Nhiệm
kỳ của Hội thẩm[9]:
Nhiệm kỳ của Hội thẩm theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra Hội
thẩm nhân dân; khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Hội thẩm nhân dân tiếp tục
làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu ra Hội thẩm nhân dân mới.
* Về trách nhiệm của Hội thẩm[10]
-
Trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật;
-
Tham gia xét xử theo sự phân công của Chánh án Tòa án mà không được từ chối, trừ
trường hợp có lý do chính đáng hoặc do luật tố tụng quy định;
- Độc
lập, vô tư, khách quan trong xét xử, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân;
-
Tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân;
- Giữ
bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật;
-
Tích cực học tập để nâng cao kiến thức pháp luật và nghiệp vụ xét xử;
- Chấp
hành nội quy, quy chế của Tòa án;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật;
- Hội
thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa
án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và
Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của
pháp luật.
* Về
chế độ, chính sách đối với Hội thẩm[11]
- Hội
thẩm được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác
xét xử của Tòa án; kinh phí tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ Hội thẩm được dự toán
trong kinh phí hoạt động của Tòa án, có sự hỗ trợ của ngân sách địa phương theo
quy định của luật.
- Hội
thẩm là cán bộ, công chức, viên chức, quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng
thì thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc ở cơ quan,
đơn vị.
- Hội
thẩm được tôn vinh và khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen
thưởng.
- Hội
thẩm được cấp trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử theo
quy định của Nghị quyết số 1214/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
trang phục của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân; Giấy chứng minh Thẩm phán, Giấy chứng
minh Hội thẩm nhân dân.
- Hội
thẩm được hưởng chế độ bồi dưỡng tham gia phiên tòa, nghiên cứu hồ sơ là 90.000
đồng/ngày[12].
Ngoài ra, Hội thẩm là Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn Hội thẩm còn được hưởng chế
độ phụ cấp theo quy định tại Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội
thẩm nhân dân.
* Về tổ chức, quản lý hoạt động của Hội thẩm[13]
Hội
thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
Trung ương. Đoàn Hội thẩm là hình thức tổ chức tự quản, hoạt động theo nguyên tắc
dân chủ, công khai, minh bạch. Mỗi Đoàn Hội thẩm có 01 Trưởng đoàn, 01 đến 02
Phó Trưởng đoàn.
Chánh
án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương phân công Hội thẩm tham gia
xét xử, bảo đảm phù hợp với yêu cầu xét xử vụ án.
Cơ
quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm
có trách nhiệm tạo điều kiện để Hội thẩm làm nhiệm vụ.
Trong
thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án thì cơ
quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có Hội thẩm đó không được điều động,
phân công Hội thẩm làm việc khác, trừ trường hợp đặc biệt và phải thông báo cho
Chánh án Tòa án biết.
2. Khái quát thực
trạng của Hội thẩm nhân dân, Đoàn hội thẩm nhân dân hiện nay
Qua các nhiệm kỳ việc bầu, cử Hội thẩm nhân
dân tại các địa phương cơ bản đã được thực hiện tốt, có sự phối hợp giữa Tòa án
nhân dân và Ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp để thống nhất và hiệp thương với các
cơ quan, tổ chức, đơn vị để giới thiệu bầu, cử Hội thẩm nhân dân các cấp, đảm bảo
số lượng, chất lượng theo các quy định hiện hành, cụ thể:
- Nhiệm kỳ Hội thẩm năm 2016 - 2021[14]: Tại 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 710 Tòa
án nhân dân cấp huyện có 16.913 Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp
tỉnh là 1.773 người, Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện là 15.140 người). -
Nhiệm kỳ Hội thẩm năm 2021 - 2026[15]:
Tại 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh
và 710 Tòa án nhân dân cấp huyện có 16.833 Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm Tòa án
nhân dân cấp tỉnh là 1.862 người, Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện là 14.971
người).
Các chế độ, phụ cấp xét xử và chính sách đối
với Hội thẩm được Tòa án đảm bảo theo quy định, được Hội đồng nhân dân, chính
quyền địa phương quan tâm hỗ trợ kinh phí hoạt động của Đoàn hội thẩm hàng năm.
Về hoạt động xét xử: Hầu hết Hội thẩm và Thẩm
phán đều có quan điểm thống nhất trong việc giải quyết vụ án nhưng cũng có ít
trường hợp Hội thẩm có quan điểm khác với quan điểm của Thẩm phán về việc giải
quyết vụ án[16]. Thông
qua chế định Hội thẩm, nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình xét xử, trực
tiếp đưa ra phán quyết trên quan điểm, đánh giá của người dân về những vấn đề
pháp lý liên quan vụ án, góp phần bảo đảm cho vụ án được xét xử một cách công bằng.
Nhìn chung các hoạt động của Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử đã phát huy
tốt vai trò độc lập, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án thông qua việc trực
tiếp đưa ra quan điểm giải quyết vụ án.
* Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh các kết quả đã đạt được, thực tế cho
thấy công tác
Hội thẩm vẫn còn một số tồn tại, hạn chế,
cụ thể như:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản
pháp quy về Hội thẩm[17] chưa đầy đủ, một số quy định còn chưa phù hợp
với thực tiễn, chưa tập chung có tính hệ thống, hoặc trùng lắp.
Có những văn bản quy phạm pháp luật đã được
ban hành từ những năm 2004 đến năm 2009, mặc dù tình thần pháp luật vẫn còn
nguyên giá trị chưa được bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế cho phù hợp với những
quy định pháp luật mới, các căn cứ mới được thay thế.
Theo quy định, Chánh án
có thẩm quyền phân công người tiến hành tố tụng phải bảo đảm để họ vô tư, khách
quan khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Tuy nhiên, chưa quy định cụ thể
hình thức, trình tự, thủ tục để phân công Hội thẩm tham gia xét xử dẫn đến thiếu
thống nhất khi triển khai thực hiện; chưa có quy định cơ chế lựa chọn ngẫu
nhiên Hội thẩm tham gia xét xử vụ án để bảo đảm tính khách quan trong xét xử.
Mặc dù đã có quy định về
trách nhiệm của Hội thẩm nhưng chưa có quy định đầy đủ để đảm bảo việc thực hiện
trách nhiệm đó, như đối với việc Hội thẩm từ chối tham gia xét xử mà không có
lý do chính đáng, dẫn đến tình trạng: (1) Hội thẩm mặc dù đã nghiên cứu hồ sơ,
nhưng gần đến ngày xét xử xin thay đổi do bận công tác hoặc vì lý do khác mà vắng
mặt đột xuất, làm cho phiên tòa phải hoãn nhiều lần do không có Hội thẩm thay
thế, (2) Hội thẩm chuyển cơ quan, thay đổi vị trí công tác cao hơn hoặc đảm nhiệm
nhiều công việc khác nên không có điều kiện tham gia xét xử, từ chối tham gia
xét xử mặc dù được mời; (3) Hội thẩm có tâm lý e ngại tham gia xét xử những vụ
án phức tạp được dư luận quan tâm như những vụ án liên quan đến những người có
chức vụ trong các cơ quan nhà nước, những vụ án có thời gian giải quyết kéo dài
nên đã từ chối tham gia xét xử.
- Hội thẩm đại diện Nhân
dân tham gia hoạt động xét xử chưa phản ánh đúng vai trò, vị trí của Nhân dân
trong việc tham gia hoạt động xét xử
Hội thẩm nhân dân tham
gia hoạt động xét xử là đại diện cho Nhân dân thực hiện quyền lực của mình khi
xét xử. Với ý nghĩa đó, Hội thẩm nhân dân phải đại diện được cho các giai tầng,
tôn giáo, ... của Nhân dân trong xã hội phù hợp với quy định về cơ cấu Hội thẩm
tại Điểm 1 Mục I của Thông tư liên tịch số 01/2004. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy
vấn đề này còn hạn chế khi tỉ lệ Hội thẩm là công chức, viên chức, cán bộ đang
làm việc trong Nhà nước chiếm đa
số, việc này ít nhiều ảnh hưởng đến vai trò đại diện Nhân dân tham gia hoạt động
xét xử của Hội thẩm chưa phù hợp với mục tiêu cơ cấu, thành phần tham gia theo
quy định. Mục đích là để thuận lợi trong hoạt động những người đã và đang là
cán bộ, công chức, viên chức này đáp ứng được các tiêu chuẩn làm Hội thẩm, đặc
biệt là tiêu chuẩn về có kiến thức pháp luật;
được quản lý, sử dụng bởi các cơ quan, tổ chức nên thuận lợi cho việc xác minh
lý lịch, hiệp thương thống nhất bầu, cử Hội thẩm tại Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc tôn vinh của xã hội
đối với những vị Hội thẩm có nhiều đóng góp cho cộng đồng còn chưa thực sự được
quan tâm. Hội thẩm tham gia công tác xét xử về bản chất là vừa thực hiện quyền
vừa thực hiện nghĩa vụ của công dân đối với xã hội. Việc quan tâm, biểu dương cơ
bản mới chỉ dừng ở Tòa án.
Việc tổ chức và hoạt động
Đoàn hội thẩm nhân dân đã được quy định trong Luật tổ chức tòa án, Nghị quyết số
1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân, nhưng thực tế Trưởng, Phó
Đoàn hội thẩm không phải là chuyên trách đều là các vị Hội thẩm kiêm nhiệm
trong khi các yêu cầu về trách nhiệm của Đoàn Hội thẩm tương đương như một tổ
chức, văn phòng thường trực với nhiều nhiệm vụ cụ thể dẫn tới hình thức trong
việc hoạt động (như Đề xuất dự toán kinh phí hỗ trợ hoạt động, phối hợp với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc tập huấn, tham gia góp ý,...), công tác phụ thuộc vào
Tòa án nơi Đoàn hội thẩm được tổ chức tham gia.
- Về chế độ chính sách đối
với Hội thẩm chưa phù hợp, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của Hội thẩm
Mặc dù các chế độ, chính sách và phụ cấp và
kinh phí cho hoạt động của Hội thẩm, Đoàn Hội thẩm đã được Đảng, Nhà nước,
chính quyền các địa phương quan tâm, cải thiện. Nhưng đây vẫn là vấn đề được
nêu rất nhiều trong các báo cáo tổng kết, báo cáo cuối năm, nhiệm kỳ của các
Đoàn Hội thẩm và qua thực tế các chế độ, đãi ngộ, còn thấp, chưa tương ứng với
trách nhiệm, đặc biệt là đối với các vị Hội thẩm tham gia nhiều vụ xét xử trong
một ngày, dài ngày hoặc ở các khu vực xa xôi, miền núi việc di chuyển có thể mất
nhiều thời gian, việc ăn nghỉ trong quá trình tham gia nghiên cứu hồ sơ, xét xử
tại Tòa án còn nhiều khó khăn, chế độ
bồi dưỡng phiên tòa đối với Hội thẩm còn thấp (từ năm 2012 tới nay là: 90.000 đồng/ngày[18])
không còn phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay.
Quy định cụ thể đối với việc thực hiện chính
sách, kinh phí bổ sung hoạt động đối với Hội thẩm, Đoàn Hội thẩm ở mỗi địa
phương là khác nhau, chưa có mức sàn quy định mà căn cứ theo tình hình và đề xuất
của Đoàn Hội thẩm hoặc Tòa án địa phương để phân bổ.
Hội thẩm là một trong những thành viên của Hội đồng xét xử đưa ra quyết định tác động
trực tiếp đến quyền con người, các
quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức, vì vậy hoạt động xét xử của Hội
thẩm là công việc vô cùng
quan trọng và cũng nguy hiểm, dễ bị de dọa về tính mạng, sức khỏe, danh dự
của bản thân và gia đình. Trong khi đó, cơ chế bảo vệ Hội thẩm và gia đình của
họ hiện chưa được quy định cụ thể, thiếu sự quan tâm dẫn đến tình trạng Hội thẩm
ngại va chạm, né tránh hoặc từ chối tham gia xét xử, đặc biệt là xét xử các vụ
án lớn, nhạy cảm, nghiêm trọng, phức tạp.
3. Một số
nhận xét về Chương VI của dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và đề
xuất kiến nghị
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
hiện nay cơ bản đã có những sửa đổi có tính chất quan trọng và cơ bản nhất đáp ứng
đối với cải cách tư pháp. Đối với các quy định về “Hội thẩm” được tập trung ghi
nhận tại Chương VI của dự thảo luật cơ bản giải quyết các bất cập, tồn tại hiện
nay như về:
- Khẳng định Hội thẩm là đại diện Nhân dân
tham gia xét xử tại Tòa án;
- Bảo vệ Hội thẩm;
- Tiêu chuẩn Hội thẩm được bổ sung;
- Chế độ, chính sách của Hội thẩm cũng được
ghi nhận bảo đảo điều kiện hoạt động của Hội thẩm, Đoàn Hội thẩm;
- Số dư khi giới thiệu bầu Hội thẩm;
- ...
Dự thảo đã có sự kế thừa và tích hợp cơ bản
các nội dung từ Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày
01/3/2004 của Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hướng dẫn
về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm nhân dân; có sự cập nhật và
bổ sung trong tình hình mới hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý một số nội dung
liên quan còn chưa được giải quyết cụ thể:
- Chưa giải quyết việc tồn tại các văn bản
quy phạm pháp luật cũ chưa được thay thế, hủy bỏ tồn tại song hành dễ gây tình
trạng chồng chéo khi thực hiện;
- Các nội dung về tiêu chuẩn trở thành Hội thẩm
có tính định tính cao, cần thiết xây dựng cụ thể hóa hoặc dân chủ hóa việc đại
diện Nhân dân tham gia xét xử của Hội thẩm. Trách nhiệm của Hội thẩm chịu sự
giám sát của Nhân dân chưa được làm rõ, dự thảo mới dừng lại ở tính nguyên tắc,
chưa cụ thể hóa được một số hình thức để nhân dân giám sát.
- Số lượng thành phần cần thiết để bầu, cử Hội
thẩm tại các Tòa án chưa được rõ ràng, mới ghi nhận Tòa án căn cứ theo nhu cầu
đề nghị về số lượng, trong khi Thông tư liên tịch số
01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 01/3/2004 và Nghị quyết số
1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân có quy định cơ bản về điều
này.
- Việc bầu Hội thẩm nhân
dân giữa các Tòa án chưa thống nhất tại Điều 127 của dự thảo luật, cấp sơ thẩm
(huyện và tỉnh) thì do Tòa án đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm và việc bầu bảo
đảm có số dư; Tòa án cấp sơ thẩm chuyên biệt: đề xuất
nhu cầu về số lượng và đề cử danh sách Hội thẩm, không nêu đến số dư
khi bầu.Chưa có quy định về cách tính số dư hay giao xây dựng về cách tính số
dư.
- Các vị Hội thẩm nhân
dân tại Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là các chuyên gia, có kiến thức
chuyên môn, kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải quyết,
xét xử của Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt được Tòa án đề xuất nhu cầu về số lượng và đề cử danh sách đề nghị Mặt trận giới thiệu Hội đồng nhân dân nơi
tòa án đặt trụ sở, điều này chưa thật phù hợp thực tế do những vị này có thể
không sinh sống và làm việc thường xuyên tại nơi Tòa án đặt trụ sở và có thể
phát sinh khó khăn trong việc xác minh hồ sơ, lý lịch, danh sách Hội thẩm nhân
dân,...
Qua các
đánh giá và nhận định về các tồn tại, hạn chế nêu trên, tôi kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định về Hội thẩm, Đoàn Hội thẩm nhân dân như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, rà soát toàn bộ
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về Hội thẩm; tập trung hoàn thiện sửa đổi,
bổ sung các văn bản đã lỗi thời, chưa cập nhật các nội dung mới, chưa bổ sung
các quan điểm có tính thời đại; các văn bản còn trùng lắp mâu thuẫn hoặc chưa phù
hợp với Hiến pháp, Luật ban hành văn bản quy pháp pháp luật, ...; bảo đảm tính
thống nhất trong các văn bản tố tụng liên quan về Hội thẩm, khẳng định vị trí,
vai trò độc lập của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử để có sự điều chỉnh phù hợp
trong hệ thống các văn bản quy phạm khẳng định vị thế xã hội của Hội thẩm.
Thứ hai, Tòa án cần chủ trì, phối hợp nghiên cứu xây dựng
và ban hành: các tiêu chí về tiêu chuẩn, nguyên tắc, cơ cấu, tổ chức thực hiện
bầu, cử đối với Hội thẩm nhân dân các cấp. Trong đó, cụ thể hóa các tiêu chuẩn
hiện nay (như về kiến thức pháp luật, hiểu biết xã hội, pháp luật, thời gian
công tác, chuyên môn, ...); tỉ lệ cơ cấu thành phần tham gia Hội thẩm; các
nguyên tắc về cơ cấu tham gia Hội thẩm đảm bảo tính đa dạng thành phần, tính đại
diện các giai tầng trong xã hội.
Thứ ba, tăng cường nâng cao chất lượng lựa chọn,
giới thiệu, bầu đại diện Nhân dân tham gia đội ngũ Hội thẩm đáp ứng yêu cầu của
công tác xét xử. Muốn vậy, trình tự, thủ tục lựa chọn giới thiệu người phải được
xây dựng công phu; tiêu chuẩn Hội thẩm, tỉ lệ cơ cấu, số lượng thành phần tham gia Hội
thẩm, có tỉ lệ số dư (số người được giới thiệu phải nhiều hơn số người được bầu bao
nhiêu phần trăm) khi
giới thiệu để bầu phải được phổ biến, công khai cho nhân dân được biết.
Có cơ chế về thông tin, quy trình cách thức hiệp thương trước khi đề nghị
Hội đồng nhân dân bầu Hội thẩm tương tự như cách thức bầu cử đối với đại biểu
dân cử (trong lịch
sử đã có Sắc lệnh 13/SL ngày 24-1-1946, từng xác định về phụ thẩm (Hội thẩm) là
những người trong thành viên Hội đồng nhân dân tham gia và các trường hợp loại
trừ hoặc bổ sung), cụ thể: Công dân Việt Nam xét thấy bản
thân có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật sẽ tự ứng cử tham
gia Hội thẩm nhân dân và (hoặc) các cá nhân do các cơ quan/tổ chức cử đại diện
tham gia ứng cử Hội thẩm nhân dân, danh sách tự ứng cử/ứng cử này sẽ được Ủy
ban MTTQ Việt Nam theo thẩm quyền hiệp thương thống nhất, bảo đảm số dư để giới
thiệu và đề nghị Hội đồng nhân dân bầu Hội thẩm nhân dân. Có sự phối hợp giữa:
Tòa án, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận trong việc xây dựng và thực hiện quy
trình. Điều này sẽ khẳng định vị thế và trách nhiệm của các vị
Hội thẩm là đại diện của Nhân dân tham gia hoạt động xét xử nói riêng và hoạt động
thực hiện quyền tư pháp nói chung của Nhân dân.
Ngoài ra,
việc đề xuất, đề nghị danh sách các vị Hội thẩm nhân dân để bầu tham gia Tòa án
nhân dân sơ thẩm chuyên biệt cần mở rộng phạm vi đối với Ủy ban MTTQ Việt Nam,
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo thẩm quyền bên ngoài địa giới hành chính cấp tỉnh
nơi Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt đặt trụ sở là cần thiết để đảm bảo tính
khả thi theo thành phần đề nghị.
Thứ tư, xây dựng và sửa đổi các quy định về trách nhiệm
của Hội thẩm. Hội thẩm là đại diện của Nhân dân tham gia hoạt động
xét xử nói riêng và hoạt động thực hiện quyền tư pháp nói chung của Nhân dân,
chịu sự giám sát của Nhân dân. (Các quy định về trách nhiệm đã được quy định tại
Điều 126 của dự thảo Luật tổ chức Tòa án.) Cụ thể: Xây dựng quy định về báo cáo
trước Nhân dân, thông qua hình thức Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm báo cáo,
kiến nghị tới Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội đồng nhân dân có thẩm quyền
bầu Hội thẩm và Nhân dân thông qua Đoàn Hội thẩm về việc tham gia xét xử của
mình tại Tòa án, kiến nghị liên quan tại Điều 126 của dự thảo Luật, để Nhân dân
đánh giá ghi nhận tín nhiệm hoặc không tín nhiệm;
Thứ năm, quy định cụ thể hơn về hình thức khen thưởng và
xử lý vi phạm, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm theo
quy định. Đặc
biệt là cơ chế tôn vinh của cộng đồng đối với Hội thẩm, các
giá trị cần được đề cao và ghi nhận đối với Hội thẩm nhân dân.
[1] Khoản 2 Điều 34, Điều 46 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Khoản 2 Điều 46, Điều 49 Bộ luật Tố tụng dân sự,
khoản 2 Điều 36, Điều 39 Luật Tố tụng hành chính.
[3] Điểm 1 Mục I của Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN
ngày 01/3/2004 của Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hướng
dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm nhân dân (Thông tư liên
tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN).
[4] Điểm
2 Mục I của Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN và tại Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số
1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân.
[5] Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[6] Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[7] Thông tư số
03/2009/TT-TANDTC ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc giới
thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận
nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân.
[8] Điều
90 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
[9] Điều 87 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[10] Điều 89 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[11] Điều 88 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
[12] Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày
05/10/2012 của Thủ tướng Chỉnh phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia
phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự.
[13] Điều 91 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và
Nghị quyết số 1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt
động của Đoàn Hội thẩm.
[14] Báo cáo số 20 của
TANDTC ngày 21/7/2021 về Tổng kết công tác Hội thẩm nhiệm kỳ 2016-2021
[15] Số liệu do TANDTC
cung cấp sau khi bầu, cử Hội thẩm nhân dân nhiệm kỳ 2021-2026
[16] Báo cáo số 20 của
TANDTC: Trong nhiệm kỳ 2016-2021, có 35 lượt Hội thẩm
không thống nhất với Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa khi ra phán quyết; trong số
này có 04 vụ án sau đó được Tòa án cấp phúc thẩm ra phán quyết theo quan điểm của
Hội thẩm
[17] Hiến pháp;Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Bộ luật Tố tụng hình
sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
1213/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế
tổ chức và hoạt động của Đoàn Hội thẩm; Nghị quyết số
1214/2016/UBTVQH13 ngày 13/6/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về trang phục của
Hội thẩm nhân dân; Nghị quyết liên tịch số 05/2005/NQLT/TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN ngày
05/12/2005 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa
án nhân dân; Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN; Thông tư số
03/2009/TT-TANDTC ngày 05/3/2009 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc giới
thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận
nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân,
Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg
ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chỉnh phủ về chế độ bồi dưỡng đối với người tham
gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự...
[18] Quyết định số
41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chỉnh phủ về chế độ bồi dưỡng đối
với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét